Đồng bằng sông Cửu Long phấn đấu đến năm 2030 diện tích nuôi trồng thủy sản đạt trên 990.000 ha, sản lượng đạt trên 4.800.000 tấn
Ngày 12/8/2021, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã ban hành Quyết định số 3550/QĐ-BNN-TT phê duyệt Đề án phát triển nuôi trồng thuỷ sản bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030. Theo đó, mục tiêu phấn đấu đến năm 2030 diện tích nuôi trồng thủy sản đạt trên 990.000 ha, sản lượng đạt trên 4.800.000 tấn.
Mục tiêu chung của Đề án là phát triển nuôi trồng thủy sản vùng Đồng bằng sông Cửu Long bền vững, trở thành lĩnh vực có đóng góp quan trọng vào tăng trưởng của ngành nông nghiệp và phát triển kinh tế - xã hội vùng.
Dự kiến đến năm 2030 diện tích nuôi trồng thuỷ sản đạt trên 990.000 ha (nuôi nước mặn, lợ 740.000 ha, nuôi nước ngọt 150.000 ha và 1.260.000 m3 nuôi lồng trên sông). Trong đó, tôm nước lợ đạt 720.000 ha; cá tra đạt 7.447 ha; tôm càng xanh đạt 50.000 ha; cá rô phi đạt 6.350 ha và 1.260.000 m3 lồng bè. Sản lượng nuôi trồng thuỷ sản đạt trên 4.800.000 tấn. Trong đó, tôm nước lợ đạt trên 1.200.000 tấn; cá tra đạt khoảng 2.000.000 tấn; tôm càng xanh đạt trên 80.000 tấn; cá rô phi trên 175.000 tấn; nhuyễn thể đạt trên 250.000 tấn và các loài thuỷ sản khác đạt khoảng 1.100.000 tấn.
Toàn bộ 100% vùng nuôi trồng thuỷ sản tập trung được kiểm soát môi trường, dịch bệnh và an toàn thực phẩm; giảm tỷ lệ diện tích thiệt hại do một số bệnh nguy hiểm gây ra trên tôm nuôi nước lợ xuống dưới 10%/năm và cá tra dưới 8%/năm. Diện tích và sản lượng nuôi trồng thủy sản được sản xuất theo mô hình hợp tác và liên kết chuỗi đạt trên 30%. Diện tích nuôi trồng thủy sản đạt một trong các chứng nhận GAP, hữu cơ và các chứng nhận chất lượng khác đạt trên 20%,..
Ngoài ra, tốc độ tăng trưởng giá trị nuôi trồng thủy sản đạt trên 4%/năm. Giá trị xuất khẩu đạt trên 9 tỷ đô la Mỹ (giá trị xuất khẩu tôm nước lợ và cá tra đạt trên 80% giá trị xuất khẩu của vùng),...
Để quyết tâm phấn đấu thực hiện các mục tiêu trên, Bộ Nông nghiệp và PTNT đề ra một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu như sau:
-Vùng nuôi trồng thủy sản nước ngọt: vùng ven sông và vùng trũng ngập nước của các tỉnh An Giang, Đồng Tháp và Long An phát triển nuôi cá tra theo hướng hiện đại gắn với bảo vệ môi trường. Phát triển nuôi chuyên canh, xen canh các giống loài thuỷ sản nước ngọt với sản xuất nông nghiệp, nuôi cá lồng bè trên sông, rạch. Phát triển hệ thống sản xuất giống thủy sản nước ngọt, đặc biệt là giống cá tra ở Đồng Tháp và An Giang.
-Khu vực có thời gian nhiễm mặn trong năm ngắn dưới 3 tháng, ưu tiên phát triển nuôi chuyên canh các đối tượng nước ngọt hoặc nuôi kết hợp với sản xuất nông nghiệp. Một số huyện/thị xã thuộc 11 tỉnh/thành phố, trừ An Giang và Cà Mau thì phát triển nuôi trồng thủy sản chuyên canh, xen canh các đối tượng thủy sản nước ngọt; ưu tiên phát triển nuôi các đối tượng thủy sản có khả năng thích nghi rộng với độ mặn như tôm càng xanh, cá rô phi, cá kèo,... ở những vùng giáp ranh mặn ngọt.
-Vùng nuôi trồng thủy sản mặn lợ (các tỉnh Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang): Tập trung phát triển nuôi trồng thuỷ sản mặn lợ như tôm sú, tôm chân trắng, cua, nhuyễn thể và các giống loài thuỷ sản mặn lợ khác. Đồng thời, rà soát, đánh giá tác động và chuyển đổi diện tích đất nông nghiệp bị nhiễm mặn sang phát triển nuôi các đối tượng thủy sản với các hình thức nuôi phù hợp như chuyên canh, xen canh, luân canh,..
-Tôm nước lợ (tôm sú, tôm chân trắng): Phát triển nuôi tôm sú sinh thái ở rừng ngập mặn, nuôi hữu cơ, nuôi tôm-lúa ở khu vực ven biển, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tại địa phương, thích ứng với biến đổi khí hậu, nước biển dâng và xâm nhập mặn. Ưu tiên ứng dụng kỹ thuật, khoa học công nghệ mới, quản lý tốt môi trường, dịch bệnh để nâng cao năng suất tôm nuôi.
Phát triển nuôi tôm chân trắng theo hướng công nghiệp, áp dụng công nghệ cao để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị sản phẩm và bảo vệ môi trường sinh thái.
-Cá tra: Tập trung phát triển nuôi cá tra công nghiệp ven sông Tiền, sông Hậu và các khu vực có điều kiện thuận lợi để sản xuất tạo ra sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu thị trường xuất khẩu. Áp dụng công nghệ nuôi mới, tiết kiệm nước, tiết kiệm nhiên liệu để bảo vệ môi trường, phòng ngừa dịch bệnh và thích ứng với biến đổi khí hậu. Nâng cao tỷ lệ diện tích, sản phẩm cá tra nuôi được chứng nhận theo các tiêu chuẩn chất lượng GAP, ASC, BAP… đáp ứng yêu cầu của các thị trường nhập khẩu.
-Tôm càng xanh và giáp xác khác: Phát triển các hình thức nuôi thích ứng với biến đổi khí hậu, bền vững. Trong đó, các tỉnh vùng thượng đồng bằng gồm An Giang, Đồng Tháp, Long An và một phần của Kiên Giang ưu tiên phát triển hình thức nuôi thâm canh hoặc bán thâm canh, áp dụng công nghệ tiên tiến, tiết kiệm nước hoặc nuôi tôm càng xanh - lúa xen canh; các tỉnh vùng giữa gồm Cần Thơ, Hậu Giang, Vĩnh Long và một phần của Tiền Giang ưu tiên phát triển tôm càng xanh - lúa xen canh, tôm càng xanh - mương vườn; các tỉnh ven biển gồm Bạc Liêu, Cà Mau, Trà Vinh, Sóc Trăng..., vùng giáp ranh nước ngọt mặn lợ, ưu tiên phát triển nuôi tôm càng xanh - lúa luân canh, hướng đến xây dựng những vùng sản xuất quy mô lớn, đảm bảo đáp ứng yêu cầu xuất khẩu.
Xây dựng, phát triển nuôi tôm càng xanh hữu cơ, sinh thái gắn với chứng nhận chất lượng tại các vùng nuôi tôm trọng điểm và nuôi cua, ghẹ theo hướng chuyên canh, kết hợp với nuôi tôm, nhuyễn thể,... để tạo sản phẩm lớn, giá trị cao, định hướng xuất khẩu.
-Cá rô phi: Phát triển nuôi lồng bè trên sông và trong ao đầm nước lợ để trở thành vùng sản xuất cá rô phi trọng điểm của cả nước; hình thành các vùng nuôi cá rô phi tập trung tại các vùng nước lợ theo hình thức nuôi chuyên canh, xen canh hoặc kết hợp tôm nước lợ (Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang), tạo sản phẩm chất lượng cao, sản lượng lớn làm nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu và cung cấp một phần cho tiêu dùng trong nước. Phát triển nuôi cá rô phi tập trung áp dụng công nghệ cao, có chứng nhận để nâng cao năng suất, sản lượng, chất lượng và giá trị sản phẩm, tạo khối lượng sản phẩm lớn phục vụ xuất khẩu.
-Nhuyễn thể: Phát triển nuôi nghêu ở các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau; nuôi hàu ở Bến Tre và Cà Mau; nuôi sò huyết ở Bến Tre, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và Kiên Giang. Ưu tiên phát triển các hình thức nuôi đạt chứng nhận ASC, MSC, … theo yêu cầu thị trường.
Duy trì phát triển quy mô sản xuất với các đối tượng thủy sản nuôi khác như các loài cá truyền thống để cung cấp cho nhu cầu tiêu thụ nội địa và áp dụng các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật để sản xuất đảm bảo an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường sinh thái.
Ngoài ra, Bộ Nông nghiệp và PTNT đề ra một số nhiệm vụ và giải pháp về đầu tư xây dựng hệ thống hạ tầng phục vụ phát triển nuôi trồng thủy sản thích ứng với biến đổi khí hậu; Phát triển hệ thống sản xuất, cung ứng giống và vật tư phục vụ nuôi trồng thủy sản; Bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu; Tổ chức, quản lý sản xuất; Khoa học công nghệ, khuyến ngư và đào tạo nguồn nhân lực; Xúc tiến thương mại sản phẩm nuôi trồng thủy sản,.. để thực hiện mục tiêu trên của Đề án.
Nhằm triển khai thực hiện các nhiêm vụ, mục tiêu trên một cách đồng bộ, hiệu quả, Bộ Nông nghiệp và PTNT đề nghị các đơn vị thuộc Bộ: Tổng cục Thủy sản, Vụ Khoa học Công nghệ và Môi trường, Cục Quản lý chất lượng Nông lâm sản và thuỷ sản,...; Sở nông nghiệp và Phát triển nông thôn các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương vùng Đồng bằng sông Cửu Long; Các Hội, Hiệp hội nghề nghiệp tổ chức thực hiện theo chức năng, nhiệm vụ được giao để đạt được mục tiêu phấn đấu phát triển Nuôi trồng thuỷ sản bền vững vùng Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030.
Nguồn: https://tongcucthuysan.gov.vn/vi-vn/nu%C3%B4i-tr%E1%BB%93ng-th%E1%BB%A7y-s%E1%BA%A3n/doc-tin/016162/2021-08-17/dong-bang-song-cuu-long-phan-dau-den-nam-2030-dien-tich-nuoi-trong-thuy-san-dat-tren-990000-ha-san-luong-dat-tren-4800000-tan